Phòng, trị bệnh viêm não tủy gà

Bệnh viêm não tủy gà là một bệnh truyền nhiễm của gà con với biểu hiện rối loạn sự phối hợp vận động như bại liệt, co giật. Ðồng thời ở gà lớn, virus gây bệnh mãn tính làm giảm tỷ lệ đẻ trứng và chết phôi. Bệnh xuất hiện ở nhiều nước trên thế giới.

Nguyên nhân

Bệnh do virus Avian Encephalomyelitis gây ra, thuộc chi Enterovirus, họ Picoruavirida, chủ yếu gây bệnh cho gà con. Bệnh còn có tên là dịch run rẩy. Virus phát triển rất tốt trong phôi gà gây còi cọc, chậm lớn.

 

Dịch tễ

Bệnh có thể lây truyền dọc qua trứng, virus này truyền qua trứng trong vòng 3 – 6 tuần, trứng đem ấp có thể gây chết phôi hoặc gà nở ra 1 ngày tuổi đã phát bệnh. Ngoài ra, bệnh cũng có thể lây truyền qua thức ăn, nước uống, do những con bị bệnh bài thải mầm bệnh ra môi trường chuồng trại. Bệnh cũng có thể lây nhiễm từ những đàn gà bệnh sang đàn gà không bệnh. Do nhập đàn mới hay do di chuyển đến một nơi khác đã có mầm bệnh. Lây nhiễm qua dụng cụ và người chăn nuôi.

Ðặc điểm: Thời gian nung bệnh khoảng 5 – 14 ngày. Gà, chim cút đều mẫn cảm, gà tây là ký chủ tự nhiên.

Bệnh viêm não tủy ở gà dễ gây chết phôi hoặc phát bệnh ở gà mới nở – Ảnh: IE

 

Triệu chứng

Ðối với gà con: Gà bị bệnh có biểu hiện mệt mỏi, kém ăn, ủ rũ và ngại di chuyển. Nếu đuổi, gà bệnh di chuyển quay vòng hoặc nằm bẹp tại chỗ. Một số gà co giật vùng đầu, cổ và đuôi. Tỷ lệ bệnh có thể tới 50% và chết tới 20%. Gà chết do đạp lên nhau, đói và mất nước. Gà thường biểu hiện triệu chứng sau 2 tuần tuổi (nếu bệnh được truyền qua trứng).

Ở gà đẻ, tỷ lệ đẻ giảm khoảng 5 – 50% kéo dài trong vòng 1 – 3 tuần. Trong trường hợp cá biệt có thể ngưng đẻ. Khả năng trứng nở từ những đàn gà này cũng giảm do chết phôi ở giai đoạn cuối. Một số con bị mù (thủy tinh thể bị đục) sau mỗi ổ dịch.

 

Bệnh tích

Mổ khám não gà thấy viêm xuất huyết, có u ở não, nổi hòn, biến màu…

 

Chuẩn đoán

Căn cứ vào triệu chứng lâm sàng và dịch tễ học (co giật ở giai đoạn gà con).  Phân lập và giám định virus.

Kiểm tra tổ chức học. Bệnh tích vi thể kiểm tra dưới kính hiển vi cho thấy hệ thống thần kinh trung ương viêm nhưng không có mủ. Tế bào xung quanh mạch ngoại vi ở tất cả các phần của não và dây chằng tủy sống bị thấm dịch (loại trừ tiểu não). Tiểu não bị viêm, những hạt nhỏ xuất hiện cả ở dạng lan tràn và tụ lại thành điểm. Các cơ quan nội tạng thấy tăng các nang Lympho.

Thực hiện phản ứng trung hòa để xác định trạng thái mẫn cảm hoặc miễn dịch của đàn gà.

 

Ðiều trị

Bệnh do virus gây ra nên hiện không có thuốc điều trị đặc hiệu. Khi phát hiện gà bệnh cần loại bỏ những con bệnh nặng (bị liệt, quá yếu). Dùng kháng sinh phổ rộng (Chlotetrasol, Neomycin, Septotryl…) để chống vi khuẩn bội nhiễm kế phát. Liều lượng và cách sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Bên cạnh đó, để hạn chế số gà tử vong và tăng cường sức đề kháng cho cả đàn gà người nuôi cần bổ sung thêm vitamin, cung cấp điện giải, nước uống đủ cho cơ thể, chọn lọc gà ốm chăm sóc riêng, chống bệnh thứ phát… Cách thực hiện: Hạ thấp máng uống, máng ăn cho sát nền, bắt những gà bệnh đặc biệt là gà nằm bẹp ra nhốt riêng, bơm nước thuốc cho mỗi gà 4 – 5 ml/lần, ngày bơm 6 – 8 lần, bổ sung liên tục trong 3 – 4 ngày.

 

Phòng bệnh

Phòng bệnh bằng vaccine là biện pháp hiệu quả nhất. Sử dụng vaccine Myelovax loại nhược độc đông khô do Rhone Merieux Pháp sản xuất. Lần 1 vào giai đoạn gà được 10 – 14 tuần tuổi, pha cho uống (không dùng cho gà đẻ). Sau khi tiêm phòng vaccine nhược độc, miễn dịch hình thành cao sau 2 – 3 tuần. Sau khi bị nhiễm tự nhiên hoặc sau khi tiêm chủng vaccine nhược độc miễn dịch trong cơ thể kéo dài một năm. Miễn dịch từ gà mẹ sẽ truyền sang trứng cho con được ở 2 tuần tuổi đầu.

Thực hiện các biện pháp an toàn sinh học như tiến hành tẩy uế chuồng trại, sát trùng máng ăn, nước uống. Thường xuyên thay chất độn chuồng, dọn sạch phân, rác thải…

Nguyễn An

Theo Thế giới Gia cầm