Kiến nghị bổ sung quỹ đất cho ngành chăn nuôi
Ngày 25/5/2023, Văn phòng Chính phủ đã có Thông báo số 1164/PC-VPCP về việc chuyển văn bản kiến nghị về quỹ đất và có chính sách kinh tế đặc thù cho ngành chăn nuôi của 3 hiệp hội gồm: Hội Chăn nuôi Việt Nam, Hiệp hội Chăn nuôi Gia cầm Việt Nam và Hiệp hội Chăn nuôi Gia súc lớn đến Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ NN&PTNT, Bộ Tài chính để nghiên cứu, xử lý theo quy định của pháp luật và chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao.
TS. Nguyễn Thanh Sơn, Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi Gia cầm Việt Nam cho biết: Thủ tướng Chính phủ đã rất quan tâm, lắng nghe và thấu hiểu ý kiến của các hiệp hội, cộng đồng doanh nghiệp. Theo đó đã có sự chỉ đạo rất kịp thời, quyết liệt để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp và người chăn nuôi. Hy vọng, các bộ, ngành cũng sẽ vào cuộc nhanh chóng để hiện thực hóa sự chỉ đạo của người đứng đầu Chính phủ.
Trước đó, ngày 28/4/2023, Hội Chăn nuôi Việt Nam, Hiệp hội Chăn nuôi Gia cầm Việt Nam và Hiệp hội Chăn nuôi Gia súc lớn đã có Công văn gửi Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Ủy bản Pháp luật Quốc hội kiến nghị về quỹ đất và có chính sách kinh tế đặc thù cho ngành chăn nuôi.
Hiện, chăn nuôi chưa có quỹ đất rõ ràng. Ảnh: ST
Cụ thể trong Công văn, 3 hiệp hội nhấn mạnh, chăn nuôi là ngành kinh tế quan trọng, không chỉ trong vấn đề an ninh dinh dưỡng mà còn là sinh kế của hàng chục triệu người nông dân. Tuy nhiên, hiện nay sản xuất chăn nuôi trong nước đang xuất hiện rất nhiều bất cập và ngày càng khó khăn, nhiều hộ chăn nuôi và các doanh nghiệp đang bị thua lỗ triền miên, có nguy cơ phá sản hàng loạt trong thời gian tới. Một trong những nguyên nhân có tác động trực tiếp đến hoạt động chăn nuôi, đó là không gian chăn nuôi của Việt Nam ngày càng thu hẹp và điều kiện chăn nuôi ngày càng khắt khe.
Theo đó, 3 hiệp hội đã kiến nghị Bộ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường xem xét bổ sung danh mục đất cho chăn nuôi vào Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi. Lý do của kiến nghị này, theo đại diện 3 hiệp hội, hiện nay, giá trị sản xuất ngành chăn nuôi đang chiếm khoảng 24% trong toàn bộ khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, trong khi lại không có quỹ đất rõ ràng cho chăn nuôi.
Bên cạnh đó, đại diện 3 hiệp hội cho biết quỹ đất cho nhu cầu di dời các cơ sở chăn nuôi ra khỏi vùng không được phép chăn nuôi (bao gồm: khu dân cư, nội thành, nội thị, khu công cộng, du lịch… theo quy định của Luật Chăn nuôi), hạn cuối cùng phải thực thi là ngày 1/1/2025 là rất lớn, đây đang được xem là “cuộc đại di dời trong sản xuất nông nghiệp” của nước ta.
Lấy ví dụ từ tỉnh Đồng Nai, đại diện 3 hiệp hội cho biết theo Quyết định số 296, ngày 24/2/2023 của Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt, số cơ sở chăn nuôi phải di dời của tỉnh này tính đến ngày 1/1/2025 là 3.006 cơ sở. Nếu tính mức tối thiểu diện tích trung bình cho 1 cơ sở chăn nuôi trang trại nhỏ và vừa hiện nay dao động từ 1 -5 ha, thì Đồng Nai phải cần từ 3.000 – 15.000 ha đất lõi để xây dựng chuồng trại (chưa tính đến không gian, đảm bảo có khoảng cách tối thiểu cho vấn đề kiểm soát môi trường, dịch bệnh theo quy định hiện hành).
“Hiện nay, tỉnh Đồng Nai và các cơ sở chăn nuôi buộc phải di dời đang gặp phải khó khăn lớn nhất đó là đất đai và mặt bằng phải đáp ứng được với yêu cầu đủ điều kiện chăn nuôi. Như vậy, nếu tính đủ nhu cầu đất đai cho việc di dời các cơ sở chăn nuôi ra khỏi khu vực cấm chăn nuôi trên phạm vi cả nước từ nay đến năm 2025 sẽ cần đến hàng trăm ngàn ha”, văn bản nêu rõ.
Do vậy, đại diện 3 hiệp hội kiến nghị cần đưa vào phần giải thích từ ngữ của Luật Đất đai khái niệm làm rõ đất cho chăn nuôi tập trung để các địa phương áp dụng trong quy hoạch, vì chăn nuôi tập trung có tính đặc thù cao: “Là đất nông nghiệp, có thể xây dựng được chuồng trại lâu dài, đảm bảo yêu cầu vệ sinh phòng bệnh cho con người, vật nuôi và môi trường sinh thái…”.
Đối với việc đánh giá tác động môi trường đối với cơ sở chăn nuôi, các hiệp hội chăn nuôi cho rằng việc đánh giá tác động môi trường của các cơ sở chăn nuôi là việc làm rất cần thiết, nhằm hạn chế tác động của hoạt động chăn nuôi đến môi trường, nhất là Việt Nam đã cam kết đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050, mà chăn nuôi là một trong những lĩnh vực gây tác động đáng kể đến vấn đề này, nên không thể không kiểm soát.
Tuy nhiên, việc rà soát lại các quy định về đánh giá tác động môi trường đối với các cơ sở chăn nuôi, thực sự phù hợp với yêu cầu và điều kiện thực tiễn Việt Nam, đảm bảo tính khả thi để người chăn nuôi thực hiện nghiêm túc sẽ mang lại hiệu quả tích cực hơn rất nhiều so với việc đưa ra những quy định quá cao mà người chăn nuôi không thể làm hoặc làm quá tốn kém, khi đó họ sẽ đối phó, càng làm cho công tác kiểm soát môi trường trở nên phức tạp và dễ phát sinh các tiêu cực.
Theo phản ánh của người chăn nuôi, hiện nay thời gian đánh giá công nhận cho một cơ sở chăn nuôi trang trại đủ điều kiện sản xuất thường phải kéo dài hàng năm (trung bình là 1 – 2 năm), với chi phí lên đến hàng trăm triệu đồng. Mỗi năm có tới hàng trăm cơ sở đăng ký mới, chưa kể các cơ sở phải đánh giá lại, hơn nữa các cơ sở chăn nuôi thường hay ở khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng cao…
“So với các ngành kinh tế khác trong hội nhập, ngành chăn nuôi là ngành chịu nhiều tác động rủi ro hơn và việc xử lý môi trường cũng tốn kém hơn, do vậy Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ đặc thù về vấn đề kiểm soát môi trường cho lĩnh vực chăn nuôi, giúp người chăn nuôi giảm thiểu khó khăn để đầu tư khôi phục, phát triển sản xuất”, các hiệp hội chăn nuôi kiến nghị.
Hải Băng