Kiểm soát các bệnh hô hấp trên gà

Các bệnh về hô hấp trên gà thường dễ quan sát và nhận biết. Tuy nhiên, để có được sự kiểm soát tối ưu, người nuôi cần phải áp dụng đúng phương pháp chẩn đoán, xác định nguyên nhân gây bệnh và thiết kế được một chiến lược phù hợp cho từng loại bệnh.

Ðặc điểm

Những căn bệnh truyền nhiễm thường gặp và nguy hiểm nhất trên đàn gia cầm chính là các bệnh trên hệ thống hô hấp. Chúng thường được chia làm 2 loại: Bệnh do vi khuẩn gây ra như Mycoplasma gallisepticum (MG), bệnh Coryza (Avibacterium paragallinarum) và bệnh do virus gây ra như bệnh Newcastle (Newcastle Disease: ND); Viêm phế quản truyền nhiễm (Infectious Bronchitis: IB); Viêm thanh khí quản truyền nhiễm (Infectious Laryngotracheitis: ILT); Cúm gia cầm (Avian Influenza: AI) và bệnh do virus Avian Metapneumovirus.

Mỗi bệnh đều có đặc điểm riêng, phụ thuộc vào bản chất của vi sinh vật gây bệnh, loài gia cầm bị nhiễm, con đường truyền lây và phương pháp kiểm soát/biện pháp tiêm phòng đang được áp dụng trong trại.

Chẩn đoán

Ðể chẩn đoán các bệnh khác nhau trên đường hô hấp, người nuôi cần áp dụng kết hợp nhiều phương pháp như: Kiểm tra mổ khám, mô bệnh học, nuôi cấy và xác định vi khuẩn, huyết thanh học và các phương pháp sinh học phân tử (PCR).

Phòng bệnh

Cần thiết lập một chương trình an toàn sinh học thích hợp trong trại để giúp ngăn ngừa các tác nhân có thể trở thành mầm bệnh. Ðặc biệt, cần lưu ý đến các yếu tố làm phát sinh dịch bệnh như: Các động vật khác đang sống trong trại (động vật nuôi hay hoang dã), con người đã tiếp xúc với các gia cầm khác, không khí bị nhiễm mầm bệnh từ các trại khác hay nhà cửa xung quanh, dụng cụ sử dụng ở trại khác, đàn mới đang được chuyển vào trại, nước và thức ăn… Người quản lý trại cần phải kiểm soát các yếu tố này vì chúng có thể phá hủy quy trình an toàn sinh học và nên thiết kế một chương trình thích hợp để tất cả nhân viên trong trại và khách tham quan phải tuân theo.

Kiểm soát bằng vaccine

Lựa chọn vaccine: Người nuôi lựa chọn các vaccine sống và bất hoạt thích hợp nhằm cung cấp sự miễn dịch tốt nhất mà không gây căng thẳng quá mức cho đàn gia cầm đang nuôi. Một số vaccine phòng bệnh hô hấp chỉ có tác dụng khi ở dạng vaccine sống (như ILT), một số khác lại ở dạng bất hoạt (như Coryza). Trong vài trường hợp, chỉ cần sử dụng một dạng, hoặc là sống hoặc là bất hoạt, như MG. Nhưng cũng có trường hợp (như ND và IB), thường sử dụng vaccine sống trước để kích thích sự bảo vệ đầu tiên và để “làm mồi” cho hệ thống miễn dịch hoạt động chống lại kháng nguyên đó. Sau đó, tiếp tục tái chủng với vaccine bất hoạt, tiêm thẳng vào gà hậu bị để có sự bảo vệ kéo dài hơn với mức kháng thể chuẩn cao hơn.

bệnh hô hấp trên gà

Nhỏ mắt là phương pháp chủng vaccine cho miễn dịch tốt, đều và dài.

Phương pháp sử dụng: Thiết kế chương trình tiêm phòng chỉ là bước đầu tiên; Kỹ thuật tiêm phòng sau đó mới là bước quan trọng để quyết định khả năng miễn dịch đồng đều của tất cả gà trong đàn. Theo một số nghiên cứu, để phòng bệnh hô hấp thì phương pháp chủng ngừa vaccine tốt nhất chính là nhỏ mắt. Nhưng các phương pháp chủng ngừa hàng loạt khác (phun sương hoặc pha nước uống) thường được áp dụng bởi các phương pháp này sẽ tiết kiệm nhân công. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp chủng ngừa hàng loạt này trong đàn gia cầm có quy mô lớn là không đảm bảo được sự đồng đều vaccine trên tất cả gà trong đàn.

Ðối với phương pháp pha nước uống, tốt nhất nên sử dụng khi gà đang khát vì lúc này chúng sẽ tiêu thụ hết nước có pha vaccine trong vòng 1 – 2 giờ và nên thực hiện vào sáng sớm (khi ánh sáng mặt trời vừa mới xuất hiện). Vì hầu hết virus gây bệnh hô hấp trong các vaccine sống sẽ chết đột ngột và bị bất hoạt sau 2 giờ tồn tại ở môi trường ngoài. Ngoài ra, lượng nước khi pha vaccine phải vừa đủ để tất cả gà trong trại tiêu thụ, nhưng không quá nhiều đến mức còn thừa lại và sẽ tồn đọng trong hệ thống cung cấp nước và bị bất hoạt. Chính vì thế, người nuôi phải lập kế hoạch cẩn thận và nên thực hiện thử vài lần trước khi tiến hành chủng ngừa thật sự.

Lê Loan