Hướng đi nào cho ngành nông nghiệp Thủ đô?

Trong trung hạn cũng như dài hạn, phát triển ngành nông nghiệp vẫn là ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của thành phố Hà Nội.

Ngành nông nghiệp Thủ đô đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất.

 

Hà Nội là loại đô thị đặc biệt, song ngành nông nghiệp vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng. Toàn thành phố có 30 quận, huyện, thị xã nhưng vẫn còn 17 huyện, 1 thị xã và 6 quận còn sản xuất nông nghiệp, với diện tích đất nông nghiệp chiếm 58%.

 

Hà Nội cũng có số xã nhiều nhất cả nước với 383 xã, dân số khu vực nông thôn chiếm khoảng 50%. Do đó, trong trung hạn cũng như dài hạn, phát triển ngành nông nghiệp vẫn là ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của thành phố Hà Nội. Vậy hướng đi nào cho ngành nông nghiệp Thủ đô trong giai đoạn tới?

Bước chuyển mình mạnh mẽ của nông nghiệp Thủ đô

Trong những năm qua, ngành nông nghiệp Thủ đô đã có bước chuyển mình mạnh mẽ, một số lĩnh vực tăng trưởng tương đối nhanh. Cơ cấu ngành nông nghiệp có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản, dịch vụ tăng trong khi tỷ trọng trồng trọt có xu hướng giảm.

 

Theo báo cáo của UBND thành phố Hà Nội, sau 5 năm thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, tăng trưởng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản tăng 3,35%. Trong đó, trồng trọt tăng 2,4%, chăn nuôi tăng 4%, thủy sản tăng 6,06%.

 

Đối với lĩnh vực trồng trọt, thành phố đã đẩy mạnh công tác chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang các cây trồng khác cho hiệu quả kinh tế cao hơn, giá trị tăng từ 3 – 8 lần so với trồng lúa. Cụ thể, thành phố đã xây dựng 101 vùng sản xuất rau an toàn tập trung, quy mô từ 20 ha trở lên cho giá trị sản xuất từ 400 – 500 triệu đồng/ha/năm; phát triển 50 vùng sản xuất hoa, cây cảnh 20 ha/vùng cho giá trị 0,5 – 1,5 tỷ đồng/ha/năm.

 

Về lĩnh vực chăn nuôi, trên địa bàn thành phố đã xây dựng được 15 vùng chăn nuôi tập trung quy mô lớn ngoài khu dân cư đạt giá trị từ 1 – 2 tỷ đồng/ha/năm; có hơn 2.800 trang trại, gia trại chăn nuôi.

 

Đặc biệt, trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (CNC), toàn thành phố có 164 mô hình, trong đó, có 109 mô hình trồng trọt, 40 mô hình chăn nuôi, 15 mô hình thủy sản.

 

Ông Nguyễn Thanh Sơn – nguyên Viện trưởng Viện Chăn nuôi, Ủy viên Ban Chủ nhiệm Chương trình Khoa học Công nghệ 01C-05 của thành phố Hà Nội.

 

Giá trị sản phẩm nông nghiệp CNC ước đạt khoảng 32% giá trị nông nghiệp toàn thành phố. Hạ tầng kinh tế kỹ thuật tiếp tục được quan tâm đầu tư, nông thôn từng bước được đổi mới; hệ thống giao thông nông thôn liên xã được nhựa hóa, bê tông hóa gần 100%, đường liên thôn được bê tông hóa trên 95%; có 91% đường ngõ xóm và 50% đường giao thông trục chính nội đồng được cứng hóa và 100% các hộ dân được sử dụng điện thường xuyên từ các nguồn điện lưới.

5 tồn tại và thách thức

So với nhiều địa phương khác, thành phố Hà Nội có nhiều lợi thế để phát triển nông nghiệp, đó là thị trường tiêu thụ nông sản, thực phẩm lớn nhất nhì cả nước; hệ thống giao thông thuận lợi; là trung tâm khoa học công nghệ của cả nước.

 

Tuy nhiên, những năm qua, ngành nông nghiệp của Thủ đô phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa có bước phát triển đột phá. Ngành nông nghiệp chưa tạo ra được sự khác biệt so với nông nghiệp của một số tỉnh thành khác, đặc biệt Hà Nội vẫn chưa xác định được loại hình và chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững, riêng có như một số địa phương khác.

 

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp có nhiều tiến bộ, nhưng diễn ra còn chậm, kém bền vững. Với hơn 50% dân số sinh sống ở khu vực nông thôn, hơn 12% lao động trên địa bàn thành phố đang làm việc ở lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, nhưng đóng góp của nông nghiệp chỉ chiếm 2% GDP của thành phố.

 

Sản xuất nông nghiệp vẫn còn nhỏ lẻ, manh mún, chưa hình thành được các vùng sản xuất tập trung hàng hóa mũi nhọn. Các chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ nông sản chưa phát triển; kinh tế hộ còn chiếm tỷ lệ cao, trong khi doanh nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp số lượng ít, quy mô nhỏ, hiệu quả hoạt động chưa cao.

 

Việc thu hút doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chưa nhiều. Thu nhập bình quân của người dân khu vực nông thôn vẫn thấp, dưới 55 triệu đồng/năm. Quyền sở hữu đất đai hiện tại là rào cản lớn nhất không thu hút được nhà đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp công nghệ cao; thiếu chính sách và biện pháp cụ thể cho việc hỗ trợ hình thành và phát triển mô hình kinh tế hợp tác kiểu mới.

 

Trong khi đó, ngành nông nghiệp của Hà Nội đang phải đối mặt với nhiều thách thức:

 

Một là, diện tích đất nông nghiệp ven đô bị thu hẹp dần, do công nghiệp hóa và đô thị hóa. Theo thống kê, trong giai đoạn 2016-2020, diện tích đất nông nghiệp giảm khoảng 16.549 ha, từ 168.791ha xuống còn 152.242ha, mức giảm trung bình 3.000-3.300 ha/năm.

Do biến động về đất đai, dân số ở những vùng ven đô, khiến cấu trúc nông thôn truyền thống bị phá vỡ đột ngột, hạ tầng quá tải gây nên những ảnh hưởng xấu về môi trường sinh thái nghiêm trọng.

 

Hai là, thiếu lao động nông nghiệp, đặc biệt thiếu hụt lao động trẻ được đào tạo, có trình độ quản lý và kỹ thuật cao, do sự dịch chuyển lao động ở nông thôn ra thành thị và sự thu hút lao động từ các khu công nghiệp.

Hiện nay, có khoảng 50% dân số đang sinh sống ở khu vực nông thôn, trong đó lực lượng lao động trong lĩnh vực nông lâm, thủy sản chiếm khoảng 12% và đang có xu hướng giảm dần.

 

Ba là, ngành nông nghiệp Thủ đô phải cạnh tranh gay gắt với các địa phương trong vùng cả về chủng loại sản phẩm và giá cả. Trong khi giá thuê đất nông nghiệp tại Hà Nội đắt hơn nhiều lần so với các tỉnh trong vùng.

 

Bốn là, năng suất lao động trong nông nghiệp thấp; tính liên kết của chuỗi sản xuất cung ứng nông sản lỏng lẻo.

 

Năm là, về mặt vĩ mô, ngành nông nghiệp của Hà Nội cũng như cả nước đang phải đối mặt với hai khủng hoảng lớn và lâu dài, đó là khủng hoảng về dịch bệnh cả trên người, vật nuôi và khủng hoảng về thị trường nông sản.

 

Hướng đi và giải pháp nào?

 

Từ những tồn tại và thách thức nêu trên, để ngành nông nghiệp Thủ đô có bước phát triển đột phá và bền vững, Hà Nội cần tập trung giải quyết các nhóm vấn đề lớn sau đây:

 

Thứ nhất, cần xác định lại loại hình phát triển và chính sách phù hợp để thực hiện Chiến lược phát triển nông nghiệp của Thủ đô bền vững, hiệu quả trong thời kỳ mới. Mặc dù gần 10 năm về trước tại Quyết định số 17/2012/QĐ-UBND ngày 09/7/2012 của UBND thành phố về việc phê duyệt “Quy hoạch phát triển nông nghiệp TP Hà Nội đến năm 2020, định hướng 2030”, Hà Nội đã xác định phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái là định hướng cơ bản của ngành kinh tế quan trọng này. Tuy nhiên, đến nay, ngành nông nghiệp của Thủ đô vẫn chưa rõ hình hài phát triển. Vẫn chưa phân biệt được loại hình nông nghiệp mà Hà Nội đang xây dựng và phát triển là nông nghiệp đô thị sinh thái hay là nông nghiệp truyền thống; Loại hình nông nghiệp công nghệ cao hay mô hình nông nghiệp hữu cơ? Mô hình nông nghiệp quy mô lớn hay mô hình kinh tế hộ v.v… Các loại hình sản xuất nông nghiệp hiện nay của Hà Nội thực chất vẫn là các mô hình tương tự tại các địa phương khác trong vùng ĐBSH. Trong đó, mô hình nông nghiệp truyền thống và kinh tế hộ vẫn đang là chủ đạo. Vậy trong giai đoạn tới, ngành nông nghiệp Thủ đô sẽ phát triển theo hướng nào? Nhiều chuyên gia khuyến cáo rằng đối với Hà Nội cần ưu tiên phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và nông nghiệp đô thị sinh thái là hướng đi cơ bản trong trung và dài hạn.

 

Thứ hai, phải có các chính sách và giải pháp cụ thể để thúc đẩy phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (CNC). Phát triển nông nghiệp CNC là xu thế tất yếu của Hà Nội. Mục tiêu của thành phố đặt ra từ nay đến năm 2025, tỷ trọng giá trị sản phẩm nông nghiệp CNC từ 70% trở lên. Đây là mục tiêu rất tham vọng, trong khi hiện nay theo một báo cáo, chỉ số này của Hà Nội chỉ mới đạt khoảng 32%. Hiện nay, mặc dù Chính phủ đã ban hành các cơ chế chính sách về ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp cũng như các quy định về tiêu chí vùng nông nghiệp CNC, nhưng trên thực tế, số doanh nghiệp nông nghiệp CNC trên cả nước cũng như trên địa bàn Hà Nội chỉ đếm trên đầu ngón tay. Vậy các điểm nghẽn ở đây là gì? Phải chăng do cơ chế chính sách chưa khả thi, sự lựa chọn công nghệ của các doanh nghiệp chưa phù hợp hay là do năng lực quản trị của các doanh nghiệp, hay phải chăng đó là do mối quan hệ giữa chi phí và lợi ích của nhà đầu tư chưa tương xứng? Đấy là những vấn đề rất cần tập trung tìm cách tháo gỡ cho Hà Nội. Bởi vì, Thủ đô được kỳ vọng là trung tâm KHCN của cả nước trong sản xuất nông nghiệp. Nông dân của Hà Nội phải là nông dân 4.0, nông nghiệp phải thu hút được người tài vào tham gia phát triển sản xuất. Vì vậy, trước mắt, Hà Nội cần rà soát, điều chỉnh và ban hành mới một số cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp của Thủ đô, đặc biệt chính sách phát triển nông nghiệp CNC trong thời kỳ mới. Theo đó, tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng sản xuất nông nghiệp CNC. Ưu tiên vốn hỗ trợ hình thành vùng sản xuất nông nghiệp tập trung áp dụng quy trình kỹ thuật tiên tiến, gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm. Về chính sách đầu tư, cần tăng tỷ trọng vốn đầu tư tín dụng, vốn của doanh nghiệp, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, kể cả hình thức hợp tác công tư (PPP), giảm dần tỷ trọng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước trong tổng vốn đầu tư của ngành. Vốn ngân sách nhà nước chỉ nên tập trung đầu tư cho các nhiệm vụ cấp bách, nhiệm vụ chiến lược của ngành; đầu tư phát triển hạ tầng ở các vùng có nhiều khó khăn để hỗ trợ xóa đói, giảm nghèo, nâng cao điều kiện sống cho dân cư nông thôn.

 

Thứ ba, giải quyết những vấn đề kỹ thuật cụ thể trong sản xuất nông nghiệp của Thủ đô. Hiện nay, năng suất lao động trong nông nghiệp nói chung và trong chăn nuôi nói riêng của Hà Nội vẫn chưa vượt trội so với một số địa phương khác, lý do là gì? Phải chăng là do chất lượng giống cây trồng, vật nuôi; thức ăn chăn nuôi; phân bón; kỹ thuật chăn nuôi, canh tác; chế biến; biện pháp phòng chống dịch bệnh, hay là do mô hình tổ chức sản xuất chưa phù hợp? Đây là một trong các vấn đề rất cần phải ưu tiên giải quyết. Mặc dù những năm qua, Hà Nội đã xác định sản xuất giống vật nuôi, cây trồng chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh tại chỗ và cung ứng cho cả nước là hướng đi cơ bản, song đến nay các giống vật nuôi, cây trồng của Thủ đô vẫn chưa vượt trội với các địa phương khác. Các quy trình chọn tạo, sản xuất giống của các doanh nghiệp và cơ sở nghiên cứu trên địa bàn Hà Nội về cơ bản vẫn là công nghệ truyền thống, nên chưa có bước đột phá về năng suất cũng như chất lượng để có thể cạnh tranh với các sản phẩm cùng chủng loại trên thị trường. Vì vậy, trong giai đoạn tới, Hà Nội cần tập trung ưu tiên vốn cho nghiên cứu và chuyển giao khoa học kỹ thuật; các chương trình, dự án về chọn tạo, nhân giống cây trồng, vật nuôi, phòng chống dịch bệnh, chế biến nông sản, thực phẩm với công nghệ tiến tiến, hiện đại; ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực cho ngành nông nghiệp.

 

Thứ tư, cơ cấu lại các hình thức tổ chức sản xuất, đặc biệt xây dựng chuỗi cung ứng nông sản cho Hà Nội. Với dân số hơn 10 triệu dân, Hà Nội là thị trường tiêu thụ nông sản thực phẩm lớn cả trước mắt cũng như lâu dài. Trong khi đó, khả năng sản xuất tại chỗ của Hà Nội chỉ đáp ứng được từ 60-70% tùy từng mặt hàng, thậm chí một số mặt hàng chỉ đáp ứng được 19-20%. Thời gian qua, do tác động của đại dịch COVID-19, đã gây ra sự đứt gãy trong chuỗi cung ứng một số mặt hàng nông sản cho Hà Nội. Vì vậy, việc phát triển chuỗi cung ứng nông sản thực phẩm chất lượng cao cho Hà Nội là yêu cầu cấp thiết không những trước mắt mà còn lâu dài. Cần xác định rõ một số ngành hàng nông nghiệp của Hà Nội sẽ nằm ở khâu nào trong chuỗi cung ứng? Cấu trúc và quản trị chuỗi sản xuất, cung ứng như thế nào?  Các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết trong chuỗi cung ứng? Doanh nghiệp, HTX nông nghiệp, kinh tế hộ của Hà Nội sẽ đóng vai trò gì trong chuỗi cung ứng? Đây là những câu hỏi và vấn đề lớn đối với nông nghiệp Thủ đô. Vì vậy, Hà Nội cần cần thúc đẩy sự gia tăng về số và chất lượng các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp kiểu mới, trên cơ sở liên kết, hợp tác giữa các hộ, trang trại, doanh nghiệp bằng nhiều hình thức, quy mô khác nhau. Tạo cơ hội phát triển các loại hình doanh nghiệp nông nghiệp, cụm liên kết sản xuất công, nông nghiệp, nhất là các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản. Trước mắt Thành phố cần rà soát quy hoạch đất đai và bố trí lại các vùng, các xã trọng điểm sản xuất chuyên canh, gắn với chuỗi cung ứng nông sản trong vùng ĐBSH và liên vùng. Tạo mọi điều kiện thuận lợi về quyền sở hữu, quyền sử dụng đất đai để thu hút các doanh nghiệp đầu tư sản xuất và xây dựng chuỗi cung ứng nông sản thực phẩm không những trên địa bàn Hà Nội mà còn mang tính liên tỉnh, liên vùng. Đẩy mạnh xây dựng và phát triển các nhãn hiệu, thương hiệu sản phẩm nông nghiệp của Hà Nội, tăng cường các sàn giao dịch nông sản trực tuyến./.

 

 

(Nguyên Viện trưởng Viện Chăn nuôi

Ủy viên Ban Chủ nhiệm Chương trình KHCN 01C-05 của TP Hà Nội)